ANT Lawyers

Vietnam Law Firm with English Speaking Lawyers

ANT Lawyers

Vietnam Law Firm with English Speaking Lawyers

ANT Lawyers

Vietnam Law Firm with English Speaking Lawyers

ANT Lawyers

Vietnam Law Firm with English Speaking Lawyers

ANT Lawyers

Vietnam Law Firm with English Speaking Lawyers

Thứ Sáu, 31 tháng 5, 2019

Đầu Tư Tại Úc Kinh Doanh Và Định Cư

Đầu tư nước ngoài đóng vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế Australia. Những người nhập cư theo diện doanh nhân mang đến cho Australia nguồn vốn kinh doanh, sự đa dạng về văn hóa và ngôn ngữ cũng như những kỹ năng và kinh nghiệm kinh doanh. Australia luôn thu hút rất nhiều những nhân tài trên thế giới bằng cách đưa ra những Chương trình định cư theo diện đầu tư nhằm khuyến khích những doanh nhân thành đạt đến định cư và phát triển kinh doanh. Chương trình visa dạng đầu tư này dành cho chủ doanh nghiệp, nhà quản lý cấp cao và các nhà đầu tư. Chương trình cho phép đương đơn cùng các thành viên trong gia đình (vợ, chồng và các con dưới 18 tuổi) được định cư, sinh sống, làm việc và học tập ở Australia dưới dạng visa định cư diện doanh nhân. Chương trình định cư diện đầu tư, kinh doanh tại Australia hiện có 4 loại visa chính. Trong số đó, các visa 188 là visa tạm trú có thời hạn 4 năm, sau 2 năm sở hữu visa này, nhà đầu tư có thể xin được visa thường trú số 888 khi đạt được các điều kiện kinh doanh hoặc đầu tư tại Australia; visa 132A là một loại visa thường trú, không cần qua bước tạm trú như 188/888.

1.Visa diện Đổi mới Kinh doanh (188A)
1.1. Điều kiện đương đơn
Dưới 55 tuổi (trừ trường hợp nếu doanh nghiệp được đề cử của người đương đơn có đóng góp kinh tế to lớn cho tiểu bang hoặc vùng lãnh thổ liên quan).
Có sự nghiệp kinh doanh thành công, mong muốn sở hữu và duy trì việc kinh doanh tại Úc
Đạt tối thiểu 65 điểm theo hệ thống thang điểm di trú
Được đề cử bởi tiểu bang hoặc vùng lãnh thổ tại Úc
1.2. Tài sản ròng và vốn đầu tư
Người đương đơn hoặc vợ, chồng người đương đơn phải sở hữu ít nhất 800.000 AUD nếu đầu tư vào Bang New South Wales và 1.300.000 AUD nếu đầu tư vào Sydney.
Vốn đầu tư: tại Bang New South Wales là 300.000 AUD và tại Sydney là 500.000 AUD.
1.3. Kinh nghiệm quản lý
Có sự nghiệp kinh doanh thành công.
Định cư tại Sydney: Có quyền sở hữu đủ điều kiện trong nhiều nhất 2 doanh nghiệp có doanh thu hàng năm ít nhất là 1.000.000 AUD trong 2 năm tài chính được xét trong 4 năm tài chính gần nhẩ trước khi nộp đơn.
Định cư tại Bang New South Wales:  Có quyền sở hữu đủ điều kiện trong nhiều nhất 2 doanh nghiệp có doanh thu hàng năm ít nhất là 500.000 AUD trong 2 năm tài chính được xét trong 4 năm tài chính gần nhất trước khi nộp đơn.
“Có quyền sở hữu đủ điều kiện” được hiểu như sau:
+ 51% nếu doanh nghiệp đó có doanh thu dưới 400.000AUD.
+ 30% nếu doanh nghiệp đó có doanh thu >= 400.000AUD hoặc 10% nếu là doanh nghiệp niêm yết công khai.
2. Visa diện Nhà đầu tư (188B)
2.1. Điều kiện đương đơn
Dưới 55 tuổi (trừ trường hợp nếu doanh nghiệp được đề cử của người đương đơn có đóng góp kinh tế to lớn cho tiểu bang hoặc vùng lãnh thổ liên quan).
Đạt tối thiểu 65 điểm theo hệ thống thang điểm di trú
Được đề cử bởi tiểu bang hoặc vùng lãnh thổ tại Úc, và có ý định sinh sống tại Autralia ít nhất 2 năm.
2.2. Tài sản ròng và vốn đầu tư
Tài sản ròng: Người đương đơn hoặc vợ, chồng người đương đơn phải sở hữu tài sản cá nhân và tài sản kinh doanh ít nhất 3.000.000 AUD nếu đầu tư vào Bang New South Wales và 2.250.000 AUD nếu đầu tư vào Sydney và phù hợp với các tiêu chí của Bộ Nội Vụ Australia. Tài sản phải được chuyển vào Australia một cách hợp pháp trong vòng 2 năm kể từ ngày được cấp visa.
Vốn đầu tư: Thực hiện đầu tư theo chỉ định ít nhất 1.500.000 AUD có bảo lãnh của Chính phủ Bang hoặc Vùng lãnh thổ dưới tên của người đương đơn hoặc vợ, chồng người đương đơn. Giữ khoản đầu tư trong 4 năm
2.3. Kinh nghiệm quản lý
Kĩ năng quản lý cao cấp.
Có tối thiểu 3 năm trực tiếp quản lý doanh nghiệp hoặc khoản đầu tư đủ điều kiện.
Người đương đơn hoặc vợ, chồng người đương đơn không có liên quan đến các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp.
Người đương đơn phải trực tiếp quản lý doanh nghiệp hoặc quỹ đầu tư đủ điều kiện 1 năm tính trong 4 năm tài chính gần nhất:
– Khoản đầu tư đủ điều kiện do Người đương đơn hoặc vợ, chồng Người đương đơn sở hữu toàn bộ ít nhất 1.500.000 AUD. Khoản đầu tư này nhằm mục đích lợi nhuận.
– Doanh nghiệp đủ điều kiện do Người đương đơn hoặc vợ, chồng Người đương đơn sở hữu ít nhất 10% vốn doanh nghiệp. Doanh nghiệp này phải hoạt động vì mục đích lợi nhuận thông qua cung cấp hàng hóa và dịch vụ.
– Doanh nghiệp và khoản đầu tư không được hoạt động đầu cơ hoặc đầu tư thụ động.
3. Visa diện Nhà đầu tư Trọng yếu (188C)
3.1. Người đương đơn
Được đề cử bởi tiểu bang hoặc vùng lãnh thổ tại Úc
Người đương đơn, vợ/chồng đương đơn hoặc đương đơn và vợ/chồng đương đơn phải có tài sản ròng ít nhất là 5 triệu AUD và có sẵn để chuyển sang Úc sử dụng cho việc đầu tư;
Người đương đơn hoặc vợ, chồng người đương đơn không có liên quan đến các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp.
3.2. Đầu tư hợp pháp
Đương đơn phải thực hiện một khoản đầu tư ít nhất 5 triệu AUD trong ít nhất 4 năm, thực hiện như sau:
– Trực tiếp thực hiện đầu tư; hoặc
– Thông qua một công ty mà trong đó Đương đơn hoặc vợ, chồng Đương đơn sở hữu toàn bộ cổ phần đã phát hành; hoặc
– Thông qua một quỹ tín thác trong đó Đương đơn hoặc vợ, chồng Đương đơn là Tín nhân và Người thụ hưởng. Chú ý: Với tư cách là nhà đầu tư, Đương đơn không thể đồng thời là người được ủy thác duy nhất và người thụ hưởng duy nhất. Ví dụ, nếu Đương đơn là người được ủy thác duy nhất, thì Đương đơn và vợ, chồng của họ đều phải là những người hưởng lợi.
4. Visa diện Doanh nhân Tài năng (132A)
4.1. Đương đơn
Dưới 55 tuổi (trừ trường hợp nếu doanh nghiệp được đề cử của người đương đơn có đóng góp kinh tế to lớn cho tiểu bang hoặc vùng lãnh thổ liên quan).
Được đề cử bởi tiểu bang hoặc vùng lãnh thổ tại Úc
4.2. Tiêu chí đề cử của Bang New South Wales
Đương đơn:
– Có sự nghiệp thành công.
– Quyền sở hữu của Đương đơn trong một doanh nghiệp phải đáp ứng yêu cầu doanh thu hàng năm.
Điều kiện đối với tài sản phục vụ đầu tư và nhu cầu cuộc sống:
– Nếu đầu tư tại Sydney, Đương đơn phải chuyển ít nhất 3 triệu AUD vào quỹ tại Bang New South Wales (bao gồm 1,5 triệu AUD cho đầu tư kinh doanh).
– Nếu đầu tư tại Bang New South Wales, Đương đơn phải chuyển ít nhất 2 triệu AUD vào quỹ tại Bang New South Wales (bao gồm 1 triệu AUD cho đầu tư kinh doanh).
Kế hoạch kinh danh phải chứng minh được doanh nghiệp của Đương đơn sẽ đáp ứng các yêu cầu đầu tư kinh doanh và tạo ra việc làm:
– Đầu tư tại Sydney: it nhất 1,5 triệu AUD và tạo ra 5 vị trí việc làm
– Đầu tư tại Bang New South Wales: it nhất 1triệu AUD và tạo ra 3 vị trí việc làm
Liên hệ với Công ty luật để được tư vấn giải đáp thắc mắc của quý khách hàng.


Nguồn: http://www.antlawyers.com/dau-tu-tai-uc-kinh-doanh-va-dinh-cu/#ixzz5pU1s44Cw

Thứ Năm, 30 tháng 5, 2019

Giải Quyết Ly Hôn Với Một Bên Mắc Bệnh Tâm Thần

Trong thực tiễn cuộc sống nhiều cặp vợ chồng khi kết hôn sức khỏe đều bình thường nhưng trong thời gian tồn tại hôn nhân do bị ốm đau hoặc tai nạn dẫn đến bị bệnh tâm thần…Hoặc bị một bệnh khác mà không làm chủ được hành vi của mình, đã có thời gian dài điều trị bệnh nhưng không khỏi.

 Từ nhu cầu thực tế của cuộc sống cần giải quyết ly hôn và việc yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn có thể xảy ra hai trường hợp: Một bên vợ (chồng) của người bị bệnh tâm thần yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Bên người bị bệnh tâm thần cần phải giải quyết ly hôn vì lúc này người bị bệnh tâm thần cuộc sống của họ phải nhờ vào người khác (mà một bên vợ hoặc chồng không có trách nhiệm) do đó họ cần được chia tài sản chung để đảm bảo cho cuộc sống của họ.
 Về căn cứ cho ly hôn được quy định tại Điều 89 Luật Hôn nhân và gia đình Tòa án căn cứ để giải quyết như sau: “Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, thì Tòa án quyết định cho ly hôn”. Nhưng chúng ta biết rằng người bị bệnh tâm thần là người không có khả năng nhận thức, không làm chủ được hành vi của mình. Do đó khi có một bên có yêu cầu ly hôn thì có thể giải quyết ly hôn thông qua một trong các thủ tục sau:
 Thông qua người đại diện: Tại khoản 3 Điều 73 của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) quy định: “…đối với việc ly hôn, đương sự không được uỷ quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng”. Đối với người bị bệnh tâm thần họ không có khả năng nhận thức nên họ không biết gì về ly hôn, cũng không biết gì về uỷ quyền và họ cũng không thể thực hiện được việc uỷ quyền. Do đó không thể thực hiện được thủ tục đại diện để giải quyết việc ly hôn đối với người bị bệnh tâm thần.

Thông qua người giám hộ: Theo quy định tại khoản 2 Điều 58 của Bộ luật Dân sự (BLDS) thì: “Người được giám hộ bao gồm:… b, Người mất năng lực hành vi dân sự”. Người mất năng lực hành vi dân sự theo quy định tại khoản 1 Điều 22 BLDS: “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc do bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở của tổ chức giám định”.
 Mặt khác trong BLTTDS cũng như Luật Hôn nhân và gia đình không quy định Tòa án được giải quyết ly hôn đối với người bị bệnh tâm thần nhưng tại Điều 182 BLTTDS có quy định về những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được. Khoản 3 điều luật này quy định: “Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự”. Khoản 3 Điều 182 BLTTDS quy định về trường hợp không tiến hành hòa giải được, tức là việc ly hôn của người bị bệnh tâm thần được giải quyết theo thủ tục tố tụng của BLTTDS.
 Như vậy khi giải quyết ly hôn với một người bị bệnh tâm thần thì được giải quyết theo thủ tục có người giám hộ sau khi người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác không nhận thức làm chủ hành vi của mình được Tòa án quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự có hiệu lực pháp luật.
 Khi một người đã mất năng lực hành vi dân sự thì người giám hộ đương nhiên là người vợ hoặc chồng theo khoản 1 Điều 62 BLDS “Trong trường hợp vợ mất năng lực hành vi dân sự thì người chồng là người giám hộ; nếu chồng mất năng lực hành vị dân sự thì người vợ là người giám hộ”. Hoặc theo khoản 2 Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình quy định “Vợ chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó”. Song nếu để vợ hoặc chồng người bệnh làm người giám hộ thì không đảm bảo công bằng vì quyền lợi đối lập nhau, lúc này người vợ hoặc chồng làm thủ tục xin ly hôn có hai tư cách: Vừa là nguyên đơn vừa là người giám hộ, đại diện cho người mất năng lực hành vi dân sự (bị đơn). Đây là trường hợp không được tồn tại trong một vụ án vì quyền lợi hai bên rõ ràng là đối lập nhau (khoản 1 Điều 75 BLTTDS). Mặt khác, việc cử người khác giám hộ chỉ được thực hiện khi không có người giám hộ đương nhiên (Điều 63 BLDS), ở đây chúng ta chưa nói đến vấn đề ly hôn là một quyền nhân thân, phải do chính họ thực hiện không thể chuyển giao cho người khác (Điều 24 BLDS).
 Vậy ai sẽ đóng vai trò là người đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự trong trường hợp đặc biệt này? Theo chúng tôi, khi Tòa án đã thụ lý vụ án ly hôn theo yêu cầu của người vợ hoặc chồng với người mất năng lực hành vi dân sự thì căn cứ vào Điều 76 BLTTDS, Tòa án sẽ chỉ định người đại diện: “Trong khi tiến hành tố tụng dân sự, nếu có đương sự là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà không có người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 75 của bộ luật này thì Tòa án phải chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng tại Tòa án”. Vấn đề là sau đó Tòa nên chỉ định người đại diện là những người có mối liên hệ thân thích với người bệnh để làm sao bảo vệ được tốt nhất quyền lợi hợp pháp cho người bệnh.
 Ly hôn trong trường hợp người bị bệnh tâm thần là người khởi kiện: Vấn đề đặt ra ở đây người bị bệnh không phải là chấm dứt hôn nhân vì họ đã bị bệnh tâm thần nên không có khả năng nhận thức, không làm chủ được hành vi của mình nên họ không thể biết việc ly hôn là thế nào, cuộc sống của họ hoàn toàn lệ thuộc vào người khác nên việc giải quyết ly hôn là để được giải quyết phần tài sản chung của vợ chồng nhằm đáp ứng cuộc sống của họ (Vì trong thực tế có một số trường hợp khi một bên bị bệnh tâm thần thì phía bên vợ hoặc bên chồng bình thường không quan tâm, không có trách nhiệm gì hoặc đối xử không tốt với người chồng hoặc người vợ mất năng lực hành vi dân sự và có thể họ còn khai thác tài sản chung của vợ chồng cho những lợi ích riêng của riêng mình).
 Việc giải quyết ly hôn của họ ở đây sẽ được thông qua người giám hộ, đại diện như trường hợp trên, người bị bệnh tâm thần là nguyên đơn do người đại diện thực hiện.
 Về chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại khoản 2 Điều 27 BLTTDS: “Tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”. Vậy người đại diện cho người mất năng lực hành vi dân sự có thể đại diện cho họ để khởi kiện chia tài sản chung theo thủ tục người đại diện, vì ở đây không giải quyết về hôn nhân nên không liên quan đến quyền nhân thân (mà họ không được chuyển giao), Tòa án chỉ giải quyết về việc chia tài sản chung, thực hiện thông qua người đại diện và để tránh xung đột, đối lập về quyền lợi thì Tòa án có thể chỉ định người đại diện theo quy định tại khoản 3 Điều 141 BLTTDS. Việc giải quyết vụ án về tranh chấp tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được giải quyết theo thủ tục chung được quy định ở BLTTDS mà vẫn đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người vợ hoặc người chồng bị mất năng lực hành vi dân sự.
 Trên đây là một số ý kiến xuất phát từ thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTDS và các quy định liên quan trong việc giải quyết vụ việc ly hôn mà một bên mắc bệnh tâm thần và chúng tôi xin được chia sẻ với bạn đọc và các đồng nghiệp.
Từ nhu cầu thực tế của cuộc sống cần giải quyết ly hôn và việc yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn có thể xảy ra hai trường hợp: Một bên vợ (chồng) của người bị bệnh tâm thần yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Bên người bị bệnh tâm thần cần phải giải quyết ly hôn vì lúc này người bị bệnh tâm thần cuộc sống của họ phải nhờ vào người khác (mà một bên vợ hoặc chồng không có trách nhiệm) do đó họ cần được chia tài sản chung để đảm bảo cho cuộc sống của họ. 
 
Về căn cứ cho ly hôn được quy định tại Điều 89 Luật Hôn nhân và gia đình Tòa án căn cứ để giải quyết như sau: “Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, thì Tòa án quyết định cho ly hôn”. Nhưng chúng ta biết rằng người bị bệnh tâm thần là người không có khả năng nhận thức, không làm chủ được hành vi của mình. Do đó khi có một bên có yêu cầu ly hôn thì có thể giải quyết ly hôn thông qua một trong các thủ tục sau: 
 
Thông qua người đại diện: Tại khoản 3 Điều 73 của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) quy định: “…đối với việc ly hôn, đương sự không được uỷ quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng”. Đối với người bị bệnh tâm thần họ không có khả năng nhận thức nên họ không biết gì về ly hôn, cũng không biết gì về uỷ quyền và họ cũng không thể thực hiện được việc uỷ quyền. Do đó không thể thực hiện được thủ tục đại diện để giải quyết việc ly hôn đối với người bị bệnh tâm thần.
 
Thông qua người giám hộ: Theo quy định tại khoản 2 Điều 58 của Bộ luật Dân sự (BLDS) thì: “Người được giám hộ bao gồm:… b, Người mất năng lực hành vi dân sự”. Người mất năng lực hành vi dân sự theo quy định tại khoản 1 Điều 22 BLDS: “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc do bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở của tổ chức giám định”.
 
Mặt khác trong BLTTDS cũng như Luật Hôn nhân và gia đình không quy định Tòa án được giải quyết ly hôn đối với người bị bệnh tâm thần nhưng tại Điều 182 BLTTDS có quy định về những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được. Khoản 3 điều luật này quy định: “Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự”. Khoản 3 Điều 182 BLTTDS quy định về trường hợp không tiến hành hòa giải được, tức là việc ly hôn của người bị bệnh tâm thần được giải quyết theo thủ tục tố tụng của BLTTDS.
 
Như vậy khi giải quyết ly hôn với một người bị bệnh tâm thần thì được giải quyết theo thủ tục có người giám hộ sau khi người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác không nhận thức làm chủ hành vi của mình được Tòa án quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự có hiệu lực pháp luật. 
 
Khi một người đã mất năng lực hành vi dân sự thì người giám hộ đương nhiên là người vợ hoặc chồng theo khoản 1 Điều 62 BLDS “Trong trường hợp vợ mất năng lực hành vi dân sự thì người chồng là người giám hộ; nếu chồng mất năng lực hành vị dân sự thì người vợ là người giám hộ”. Hoặc theo khoản 2 Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình quy định “Vợ chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó”. Song nếu để vợ hoặc chồng người bệnh làm người giám hộ thì không đảm bảo công bằng vì quyền lợi đối lập nhau, lúc này người vợ hoặc chồng làm thủ tục xin ly hôn có hai tư cách: Vừa là nguyên đơn vừa là người giám hộ, đại diện cho người mất năng lực hành vi dân sự (bị đơn). Đây là trường hợp không được tồn tại trong một vụ án vì quyền lợi hai bên rõ ràng là đối lập nhau (khoản 1 Điều 75 BLTTDS). Mặt khác, việc cử người khác giám hộ chỉ được thực hiện khi không có người giám hộ đương nhiên (Điều 63 BLDS), ở đây chúng ta chưa nói đến vấn đề ly hôn là một quyền nhân thân, phải do chính họ thực hiện không thể chuyển giao cho người khác (Điều 24 BLDS).
 
Vậy ai sẽ đóng vai trò là người đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự trong trường hợp đặc biệt này? Theo chúng tôi, khi Tòa án đã thụ lý vụ án ly hôn theo yêu cầu của người vợ hoặc chồng với người mất năng lực hành vi dân sự thì căn cứ vào Điều 76 BLTTDS, Tòa án sẽ chỉ định người đại diện: “Trong khi tiến hành tố tụng dân sự, nếu có đương sự là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà không có người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 75 của bộ luật này thì Tòa án phải chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng tại Tòa án”. Vấn đề là sau đó Tòa nên chỉ định người đại diện là những người có mối liên hệ thân thích với người bệnh để làm sao bảo vệ được tốt nhất quyền lợi hợp pháp cho người bệnh.
 
Ly hôn trong trường hợp người bị bệnh tâm thần là người khởi kiện: Vấn đề đặt ra ở đây người bị bệnh không phải là chấm dứt hôn nhân vì họ đã bị bệnh tâm thần nên không có khả năng nhận thức, không làm chủ được hành vi của mình nên họ không thể biết việc ly hôn là thế nào, cuộc sống của họ hoàn toàn lệ thuộc vào người khác nên việc giải quyết ly hôn là để được giải quyết phần tài sản chung của vợ chồng nhằm đáp ứng cuộc sống của họ (Vì trong thực tế có một số trường hợp khi một bên bị bệnh tâm thần thì phía bên vợ hoặc bên chồng bình thường không quan tâm, không có trách nhiệm gì hoặc đối xử không tốt với người chồng hoặc người vợ mất năng lực hành vi dân sự và có thể họ còn khai thác tài sản chung của vợ chồng cho những lợi ích riêng của riêng mình).
 
Việc giải quyết ly hôn của họ ở đây sẽ được thông qua người giám hộ, đại diện như trường hợp trên, người bị bệnh tâm thần là nguyên đơn do người đại diện thực hiện. 
 
Về chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại khoản 2 Điều 27 BLTTDS: “Tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”. Vậy người đại diện cho người mất năng lực hành vi dân sự có thể đại diện cho họ để khởi kiện chia tài sản chung theo thủ tục người đại diện, vì ở đây không giải quyết về hôn nhân nên không liên quan đến quyền nhân thân (mà họ không được chuyển giao), Tòa án chỉ giải quyết về việc chia tài sản chung, thực hiện thông qua người đại diện và để tránh xung đột, đối lập về quyền lợi thì Tòa án có thể chỉ định người đại diện theo quy định tại khoản 3 Điều 141 BLTTDS. Việc giải quyết vụ án về tranh chấp tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được giải quyết theo thủ tục chung được quy định ở BLTTDS mà vẫn đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người vợ hoặc người chồng bị mất năng lực hành vi dân sự.  
 
Trên đây là một số ý kiến xuất phát từ thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTDS và các quy định liên quan trong việc giải quyết vụ việc ly hôn mà một bên mắc bệnh tâm thần và chúng tôi xin được chia sẻ với bạn đọc và các đồng nghiệp.



Nguồn: http://www.antlawyers.com/giai-quyet-ly-hon-voi-mot-ben-mac-benh-tam-than/#ixzz5pShw5gig

Hướng Dẫn Xác Định Giá Trị Được Hoàn Trả Khi Đất Bị Thu Hồi

Cách xác định giá trị còn lại khi đất bị thu hồi như thế nào?

Ngày 2/8/2017, Bộ Tài chính  đưa ra dự thảo Thông tư 80/2017/TT-BTC hướng dẫn việc xác định giá trị quyền sử dụng đất , tài sản trên đất được hoàn trả khi Nhà nước thu hồi đất và việc quản lý, sử dụng số tiền hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nhưng không được bồi thường về đất.


Theo đó, Dự thảo nêu rõ cách xác định giá trị còn lại của tài sản gắn liền với đất đã tạo lập hợp pháp theo quy định của pháp luật mà không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước để hoàn trả cho chủ sở hữu tài sản khi Nhà nước thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai. Việc xác định giá trị còn lại của tài sản gắn liền với đất đã tạo lập hợp pháp theo quy định của pháp luật mà không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước để hoàn trả cho chủ sở hữu tài sản được thực hiện tại thời điểm Nhà nước quyết định thu hồi đất.
Xác định giá trị quyền sử dụng đất, tiền thuê đất, giá trị còn lại của tài sản gắn liền với đất để hoàn trả cho NSDĐ khi NSDĐ tự nguyện trả lại đất.
Xác định tiền thuê đất đã trả trước còn lại để hoàn trả cho NSDĐ khi NSDĐ được Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm nhưng đã trả trước tiền thuê đất nhiều năm.
Chi tiết cách xác định việc hoàn trả trong các trường hợp trên xem tại Điều 3, 4, 5 của Thông tư này.
Thông tư 80/2017/TT-BTC có hiệu lực kể từ ngày 15/9/2017.


Nguồn: http://www.antlawyers.com/huong-dan-xac-dinh-gia-tri-duoc-hoan-tra-khi-dat-bi-thu-hoi/#ixzz5pOXwwrYC

Thứ Tư, 29 tháng 5, 2019

Tư vấn Thành Lập Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn

Công ty luật chúng tôi với các luật sư, chuyên viên pháp lý có kinh nghiệm thực tiễn tư vấn và cung cấp cách dịch vụ pháp lý cho doanh nghiệp đảm bảo tuân thủ pháp luật và thúc đẩy hoạt động kinh doanh. Dưới đây là thủ tục thành lập Công ty TNHH.


1. Hồ sơ thành lập công ty TNHH
– Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh theo mẫu thống nhất do cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền quy định
– Dự thảo điều lệ công ty
– Danh sách thành viên và các giấy tờ kèm theo sau đây
+ Đối với thành viên là cá nhân: bản sao Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác
+ Đối với thành viên là tổ chức: bản sao Quyết định thành lập, Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc tài liệu tương đương khác của tổ  chức; văn bản ủy quyền, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của người đại diện theo ủy quyền.
Đối với thành viên là tổ chức nước ngoài thì bản sao Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh phải có chứng thực của cơ quan nơi tổ chức đó đã đăng ký không quá ba tháng trước ngày nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh.
– Văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối với công ty kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có vốn pháp định.
– Chứng chỉ hành nghề của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân khác đối với công ty kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề.
2. Thủ tục thành lập công ty Trách nhiệm hữu hạn
– Người thành lập doanh nghiệp nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh đầy đủ theo quy định của Pháp luật tại cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền và phải chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh.
– Cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm xem xét hồ sơ đăng ký kinh doanh. Nếu hồ sơ đầy đủ, cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ. Nếu từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì thông báo bằng văn bản cho người thành lập biết, trong thông báo phải nêu rõ lý do từ chối và các điểm cần sửa đổi, bổ sung.
– Cơ quan đăng ký kinh doanh xem xét và chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ khi cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; không được yêu cầu người thành lập nộp thêm các giấy tờ khác không theo quy định của luật này.
– Thời hạn cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh gắn với dự án đầu tư cụ thể thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư.


Nguồn: http://www.antlawyers.com/thu-tuc-thanh-lap-cong-ty-trach-nhiem-huu-han/#ixzz5pN1pPtAx