Ngày nay các quốc gia
ngày càng chú trọng đến hoạt động tương trợ tư pháp bằng việc ký kết các điều
ước quốc tế về tương trợ tư pháp trong các lĩnh vực pháp luật. Việt Nam cũng đã
ký kết và tham gia khá nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương trong
vấn đề tương trợ tư pháp. Trong phạm vi bài viết này, người viết xin giới thiệu
quy định về phạm vi tương trợ tư pháp theo pháp luật Việt Nam, cụ thể là Luật
tương trợ tư pháp năm 2007.
Nguyên tắc tương trợ
tư pháp (TTTP)
– Nguyên tắc 1: tương
trợ tư pháp được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các
bên cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế
Việt Nam là thành viên.
– Nguyên tắc 2: trường
hợp Việt Nam và nước ngoài chưa có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp thì
hoạt động tương trợ tư pháp được thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại nhưng
không trái pháp luật Việt Nam, phù hợp với tập quán và pháp luật quốc tế.
Theo nguyên tắc trên,
hoạt động tương trợ tư pháp được thực hiện trước hết căn cứ vào điều ước quốc
tế giữa Việt Nam và quốc gia có yêu cầu TTTP. Điều ước quốc tế về TTTP là sự
thỏa thuận giữa các quốc gia ký kết, thành viên về cam kết hộ trợ pháp lý trong
hoạt động TTTP. Mặc dù vậy, hoạt động TTTP vẫn đặt trong phạm vi nhất định,
không vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc gia.
Trong trường hợp giữa
Việt Nam và quốc gia có yêu cầu TTTP chưa có điều ước quốc tế, hoạt động TTTP
được thực hiện dựa trên nguyên tắc có đi có lại. Tức là, quốc gia yêu cầu TTTP
đã từng thực hiện TTTP theo yêu cầu của Việt Nam và khi có yêu cầu từ nước
ngoài Việt Nam đáp lại yêu cầu.
Phạm vi tương trợ tư
pháp
Tương trợ tư
pháp về hình sự
Điều 17 Luật TTTP xác
định phạm vi TTTP về hình sự giữa Việt Nam và nước ngoài bao gồm những công
việc sau:
- Thu thập, cung cấp chứng cứ;
- Triệu tập người làm chứng,
người giám định;
- Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài
liệu liên quan đến tương trợ tư pháp về hình sự
- Truy cứu trách nhiệm hình sự;
- Trao đổi thông tin;
- Các yêu cầu tương trợ tư pháp
khác về hình sự.
Có thể thấy phạm vi
tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự cũng bao gồm các hoạt động tống đạt,
triệu tập, thu thập, cung cấp chứng cứ và mở rộng ra ở hoạt động truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Trách nhiệm hình sự là
trách nhiệm pháp lý nặng nề nhất đối với công dân, do đó, các hoạt động TTTP
trong lĩnh vực hình sự được Luật TTTP quy định khá chặt chẽ.
Ủy thác tư pháp của
nước ngoài sẽ bị hoãn hoặc từ chối thực hiện nếu thuộc một trong các trường hợp
sau:
- Liên quan đến việc truy cứu
trách nhiệm hình sự một người về hành vi phạm tội mà người đó đã bị kết
án, được tuyên không có tội hoặc được đại xá, đặc xá tại Việt Nam;
- Gây phương hại đến chủ quyền,
an ninh quốc gia;
- Không phù hợp với điều ước quốc
tế mà Việt Nam là thành viên, các quy định của pháp luật Việt Nam;
- Liên quan đến hành vi phạm tội
đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam;
- Liên quan đến hành vi vi phạm
pháp luật nhưng không cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam.
Tương trợ tư
pháp trong lĩnh vực dân sự
Điều 10 Luật TTTP 2007
xác định phạm vi hoạt động TTTP đối với yêu cầu TTTP ra nước ngoài cũng như yêu
cầu TTTP của nước ngoài:
- Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài
liệu liên quan đến TTTP về dân sự;
- Triệu tập người làm chứng,
người giám định;
- Thu thập chứng cứ, cung cấp
chứng cứ;
- Các yêu cầu tương trợ tư pháp
khác về dân sự.
Đúng với ý nghĩa của
hoạt động hỗ trợ, yêu cầu TTTP chỉ được thực hiện trong phạm vi các hoạt động
tống đạt, triệu tập, thu thập, cung cấp chứng chứ. Ngoài ra các biện pháp tư
pháp khác trong tố tụng dân sự cũng
có thể được yêu cầu thực hiện TTTP.
Hoạt động tương trợ tư
pháp là một hoạt động có tính chất quốc tế, vì vậy được quy định cụ thể trong
các điều ước quốc tế, đó là sự thỏa thuận, sự cam kết giữa các quốc gia trong
quan hệ hợp tác quốc tế.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét